Chiều ngày 22/11/2013, nghị trường kỳ họp thứ sáu, Quốc hội khoá XIII tiến hành thảo luận về Dự án Luật Đất đai (sửa đổi), đại biểu Huỳnh Văn Tiếp (Phó Trưởng Đoàn ĐBQH TP. Cần Thơ) tham gia đóng góp một số ý kiến như sau:
“Thứ nhất, về trách nhiệm quản lý của Nhà nước đối với đất đai, có 7 điều. Tôi thống nhất với 5 điều (Điều 22, Điều 23, Điều 26, Điều 27, Điều 28) còn 2 điều (Điều 24, Điều 25) tôi đề nghị cần cân nhắc xem lại. Ở Khoản 2 Điều 24, đề nghị cần xem lại tổ chức phát triển quỹ đất có cần ghi tại Khoản này hay ghép vào Điều 111 của Luật. Thực tế qua giám sát của Ủy ban Pháp luật tại TP. Cần Thơ cho thấy tổ chức phát triển quỹ đất là loại hình hoạt động sự nghiệp có cân đối thu, chi. Hiện nay, chủ yếu là thực hiện giải phóng mặt bằng, không đủ kinh phí để hoạt động, một số nơi phải xin ngân sách hỗ trợ. Vì thế tôi kiến nghị ở cấp huyện thành lập Ban giải phóng mặt bằng là phù hợp, không nên có tổ chức phát triển quỹ đất.
Vấn đề thứ hai, tại Điều 25 quy định về công chức địa chính xã, phường, thị trấn và thẩm quyền bổ nhiệm, bãi nhiệm có cần quy định trong Luật Đất đai hay không? Theo tôi thì không cần thiết vì Luật Cán bộ, công chức đã quy định.
Thứ ba, về quy hoạch kế hoạch sử dụng đất ở Chương IV, đây là Chương rất quan trọng vì có thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tốt, cơ quan, nhà nước có thẩm quyền mới có căn cứ để tiến hành phê duyệt dự án giao đất, trao quyết định thu hồi đất của tổ chức, cá nhân sử dụng giao chủ đầu tư thực hiện dự án. Thực tế, việc quy hoạch sử dụng đất thời gian qua thiếu sự tham gia, đóng góp của nhân dân hoặc có tham gia ý kiến nhưng không được ghi nhận, dẫn tới tình trạng quy hoạch sử dụng đất tràn lan, quá dư thừa so với yêu cầu sử dụng gây lãng phí nguồn lực đất đai, khó khăn cho người sử dụng đất và tạo ra bức xúc trong dư luận xã hội.
Vì thế việc lấy ý kiến nhân dân về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) lần này phải cụ thể, rõ ràng hơn, nhất là nội dung cần lấy ý kiến. Các ý kiến đóng góp của nhân dân phải được tổng hợp làm thành báo cáo tiếp thu, giải trình trước Hội đồng thẩm định. Theo tôi phải trình ra kỳ họp Hội đồng nhân dân quyết định về diện tích quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, các dự án, các công trình thực hiện trong kỳ quy hoạch sử dụng đất cũng như thực hiện hàng năm trên địa bàn cấp tỉnh, cấp huyện nhằm hạn chế quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quá dư thừa so với yêu cầu, hay nói cách khác là quy hoạch dự trữ, người dân thì nói rằng quy hoạch treo, dự án treo.
Thứ tư, về nguyên tắc, phương pháp định giá đất ở Điểm c Điều 112 thống nhất về nguyên tắc phương pháp định giá đất là phù hợp với giá phổ biến trên thị trường của loại đất cùng mục đích sử dụng đã được chuyển nhượng hoặc trúng giá quyền sử dụng đất. Đây là nguyên tắc, phương pháp định giá phù hợp sẽ được sự đồng thuận rất cao của nhân dân. Từ nguyên tắc, phương pháp này giúp cho việc định giá, bồi hoàn cho dân sẽ sát với thị trường hoặc ngang bằng với giá thị trường. Cử tri đề nghị tính giá đất bồi hoàn khi thu hồi đất nên tính ngang bằng với giá thị trường.
Vấn đề thứ năm, về thu hồi đất ở Điểm d Khoản 1 Điều 62, tôi đề nghị bổ sung trường hợp “những dự án như dự án khu dân cư, tái định cư, sân golf phải được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư thì mới ban hành quyết định thu hồi đất”.
Thứ sáu, tại Điều 49 về thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, tôi đề nghị Ban soạn thảo Dự án Luật và Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét lại Khoản 2, Khoản 3, Khoản 4 về thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, cách viết thế nào để quy định này đảm bảo được sự phát triển kinh tế-xã hội đất nước, nhưng cũng đảm bảo được quyền lợi người dân trong quy trình thực hiện và cơ quan nhà nước có trách nhiệm với dân nhiều hơn, chứ viết như Dự thảo Luật là quá dễ đối với cơ quan nhà nước khi quy hoạch mà khổ cho người dân như Khoản 3 có đoạn ghi: “Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch sử dụng đất không công bố việc điều chỉnh hoặc hủy bỏ việc thu hồi đất hoặc chuyển mục đích đối với phần diện tích ghi trong kế hoạch sử dụng đất thì người sử dụng đất không bị hạn chế về quyền theo quy định của Khoản 2 điều này”. Ghi như vậy là quá tùy nghi đối với cơ quan nhà nước, dễ dẫn tới lạm quyền của dân. Thực tế vừa qua đã xảy ra lạm quyền của cơ quan chính quyền đối với người dân trong quá trình sử dụng đất. Đây là vấn đề cần phải được xem xét và bổ sung vào Luật một cách hoàn chỉnh hơn”./.
Lê Lạc (lược ghi)